Học viện Công dân
James Peron
Thành tựu về Bình đẳng Đòi hỏi Xóa bỏ Tự do
Chủ nghĩa xã hội, cùng với các phong trào khác dựa trên chủ nghĩa
bình đẳng, thường được nâng lên như một lý tưởng đạo đức. Nhiều người
cho rằng xu hướng tiến đến “sự bình đẳng” là điều rất đáng ca ngợi. Tuy
nhiên, người ta thường thừa nhận rằng chủ nghĩa xã hội, mặc dù dựa trên
một nguyên tắc đạo đức, đã thất bại vì nó đã sử dụng phương tiện phi đạo
đức để đạt được cứu cánh.
Nhưng vấn đề là các phương pháp thực hiện những lý tưởng xã hội chủ
nghĩa vốn có trong những lý tưởng đó. Bình đẳng, chính cái nguyên tắc
của chủ nghĩa xã hội mà rất nhiều người đưa ra như là đức hạnh cao nhất
của nó, chắc chắn sẽ dẫn đến chế độ độc tài. Cựu lí luận gia Marxist
David Horowitz nói rằng “các quyền vẫn thường được tuyên bố trước đây
trong các luận thuyết của cánh Tả là [những điều] tự mâu thuẫn và tự
chuốc lấy thất bại.” Các thành tựu của sự bình đẳng đòi hỏi phải xóa bỏ
tự do. Horowitz viết: “Chế độ công bằng xã hội mà cánh Tả mơ ước là một
chế độ, do chính bản chất của nó, phải bóp nát tự do cá nhân. Nó không
phải là vấn đề về sự lựa chọn phương tiện chính trị đúng (mà vẫn tránh
phương tiện chính trị sai) để đạt được cứu cánh mong muốn. [Bởi vì] các
phương tiện được bao hàm trong cứu cánh. [Hay trong cứu cánh vốn có các
phương tiện rồi.] Các cuộc cách mạng của cánh tả phải bóp nát tự do để
đạt được “công bằng xã hội” mà nó mưu cầu. Do đó, đạt được ngay cả cứu
cánh ấy là điều bất khả thi. Đây là vòng tròn độc tài toàn trị mà chẳng
thể điều chỉnh thành hình vuông được. Chủ nghĩa xã hội không phải là
bánh mì mà không có tự do; nó chẳng phải tự do cũng chẳng phải bánh mì.”
Các tính chất hủy diệt của chủ nghĩa xã hội là kết quả của sự mong
muốn của nó về sự bình đẳng. Không khó để hiểu được những lý do của điều
đó. Trong ‘Hiến pháp về Tự do’, F. A. Hayek[1]
đã viết, “Có một điều không đúng sự thật rằng con người được sinh ra
bình đẳng; . . . nếu chúng ta đối xử với họ như nhau, kết quả phải là
bất bình đẳng ở các địa vị thực tế của họ; . . . [do đó] cách duy nhất
để đặt họ ở địa vị bình đẳng sẽ là đối xử với họ một cách khác nhau.
Bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng về vật chất, do đó, không chỉ
khác nhau, mà còn mâu thuẫn với nhau nữa.”
Trong thiên hạ có những người với những mức độ thông minh khác nhau,
bên cạnh những mức độ khác nhau về học vấn và khả năng. Không phải ai
cũng có thể là một nhà vật lý hạt nhân hoặc một bác sĩ y khoa. Và dù sự
học có nhiều bao nhiêu cũng không thay đổi được điều đó. Vậy thì làm thế
nào để chúng ta đạt được sự bình đẳng về kết quả nếu đó là mục tiêu của
chúng ta? Phương pháp duy nhất còn lại là kéo những người tài giỏi nhất
xuống. Những người thông minh, do đó, trở thành nạn nhân của bạo lực
đám đông kém thông minh nhất trong xã hội. Đây là lý do tại sao Mao có
Cách mạng Văn hóa của ông ta. Đây là lý do tại sao Pol Pot đã tấn công
những người có học vấn. Đây là lý do tại sao Robert Mugabe ở Zimbabwe đã
nhằm vào các chuyên gia da đen và nông dân thương mại da trắng.
Nhà xã hội học Robert Nisbet lý giải rằng chủ nghĩa bình đẳng là học
thuyết căn bản của phong trào chính trị cách mạng. Hơn bất kỳ giá trị
nào khác, sự bình đẳng là động cơ chính yếu của chủ nghĩa cực đoan.
Không có giá trị nào khác phục vụ một cách hiệu quả như vậy trong việc
phân biệt giữa các ý thức hệ khác nhau của hiện tại lẫn của hai thế kỷ
đã qua. Thái độ của một người đối với sự bình đẳng trong mớ phức tạp bao
gồm những hàng hóa xã hội, văn hóa và kinh tế cho chúng ta thấy [một
cách chính xác] gần như hoàn hảo rằng người đó theo phái cấp tiến, tự do
(cổ điển), hay bảo thủ.
Mối bận tâm với sự bình đẳng đã thực sự là một biểu hiện thường xuyên
của những người cấp tiến ở phương Tây trong một thời gian dài. Niềm say
mê sự bình đẳng mà thoạt đầu rất mạnh mẽ vào thời điểm của Cách mạng
Thanh giáo là một biểu hiện quan trọng của mỗi cuộc cách mạng lớn ở
phương Tây (trường hợp cuộc cách mạng của Mỹ có thể được coi là một
ngoại lệ với nhiều điều pha trộn), và sự say mê này đã mang theo nó một
sự thôi thúc đã kéo dài hàng thiên niên kỷ trong lòng những người sùng
tín niềm say mê ấy hơn [những người say mê khác] dẫn họ tới hành động
phá hoại, lật đổ, và hủy diệt bất cứ xã hội nào mà họ thấy có sự bất
bình đẳng.
Một xã hội tự do sẽ không thể là một xã hội bình đẳng. Một khi con
người được tự do, những lựa chọn mà họ chắc chắn thực hiện sẽ làm thay
đổi mức độ giàu có của họ. Thậm chí nếu chúng ta có thể tái phân phối
tất cả sự giàu có một cách bình đẳng, một khi bàn tay sắt của sự điều
khiển tập trung đã được gỡ bỏ, sự bất bình đẳng sẽ ngay lập tức sinh ra.
Hãy tưởng tượng một xã hội hoàn toàn bình đẳng về sự giàu có nhưng đó
là nơi mà tất cả mọi người được tự do đưa ra quyết định liên quan đến
cuộc sống riêng của họ. Nếu sự giàu có [của mọi người] là như nhau vào
lúc 8 giờ sáng, thì nó sẽ trở nên không như nhau vào lúc 8 giờ 1 phút
sáng. Một số cá nhân sẽ tiêu tiền của họ, trong khi những người khác sẽ
đầu tư nó. Một số sẽ đánh bạc với nó hay mua bánh ngọt. Những người khác
sẽ mua lại các dụng cụ để làm việc hoặc trả tiền cho giáo dục, đào tạo.
Mỗi sự lựa chọn có nghĩa là phân phối của cải sẽ trở nên dần dần bất
bình đẳng hơn. Cách duy nhất để ngăn điều này xảy ra là tước quyền của
cá nhân trong việc ra quyết định cho chính mình. Sự hủy diệt tự do là
phương pháp duy nhất để thực hiện sự bình đẳng về kết quả.
Vì vậy, mỗi xã hội bình đẳng cuối cùng phải dựa vào cưỡng chế và độc
tài để đạt được các mục tiêu của nó. Một số xã hội độc tài ôn hòa hơn
những xã hội khác, nhưng phương pháp luôn luôn giữ nguyên. Ngay cả những
nhà nước phúc lợi ôn hòa nhất cũng cần đến những chính sách tái phân
phối [một cách] cưỡng chế mang tính hệ thống và liên tục.
Chủ nghĩa xã hội dân chủ
Chủ nghĩa xã hội dân chủ không là ngoại lệ. Trong một bài báo cho tạp
chí Free Inquiry, số mùa thu 1989, Giáo sư Kai Nielsen đã đưa ra luận
điểm rằng trong một xã hội xã hội chủ nghĩa, “quyền lực và sức mạnh được
chia sẻ.” Mọi người đều có cơ hội bình đẳng, ít nhất là theo nghĩa “một
người, một phiếu bầu.” Kết quả là, ông nói, “tạo ra sự bình đẳng lớn
hơn về điều kiện.” Nhưng điều này là không đúng. Thiểu số hầu như không
được hưởng lợi từ một biểu quyết của đa số. Điều này đúng cho người da
đen ở miền Nam Hoa Kỳ thời luật Jim Crow còn được áp dụng[2]
và cũng đúng như vậy vào ngày hôm nay cho người da trắng ở Zimbabwe. Ít
nhất dưới chủ nghĩa tư bản, một số doanh nhân “tham lam” sẵn sàng bán
cho tôi những hàng hoá tôi cần. Tuy nhiên, dưới chủ nghĩa xã hội dân
chủ, tôi phải thuyết phục đa số đồng bào mình về tính hữu ích của việc
đáp ứng nhu cầu hoặc mong muốn của tôi. Khơi gợi những mong muốn ích kỷ
của một doanh nhân “tham lam” dễ dàng hơn nhiều so với khơi gợi các xung
động vị tha của phần đông dân chúng.
Nielsen cho rằng “một xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ bình đẳng hơn so với
một xã hội tư bản chủ nghĩa,” và tôi nghi ngờ rằng ông đúng. Nhưng có
hai cách để tạo ra một xã hội bình đẳng. Một là nâng tất cả mọi người
lên đến mức cao nhất; hai là hạ tất cả mọi người xuống đến mức thấp
nhất. Cách thứ nhất đã chứng minh là khá khó nắm bắt, trong khi cách thứ
hai có vẻ dễ đạt được hơn nhiều. Các chương trình Chia Sẻ-sự-Giàu Có
(Share-the-Wealth) chắc chắn cuối cùng ở thành kế hoạch Chia Sẻ-sự-Nghèo
Khó (Share-the-Poverty).
Những người chống chủ nghĩa tư bản nói rằng thực tế thị trường tự do
sản xuất ra những phần thưởng bất bình đẳng chứng tỏ nó kém cỏi-nếu
không muốn nói là xấu xa. Nhưng trong một xã hội mà sự tự do tư tưởng
được cho phép, một số người sẽ tư duy hiệu quả hơn và hợp lý hơn một số
người khác. Liệu khả năng tư duy không đồng đều có là điều sai lầm hơn
so với khả năng kinh tế không đồng đều hay không? Là một vấn đề của thực
tế, phần lớn các bất bình đẳng về sự giàu có là do sự bất bình đẳng về
khả năng tư duy. Mỗi người đều có quyền bình đẳng để suy nghĩ, và quyền
bình đẳng để lao động, nhưng chúng ta không thể đảm bảo một kết quả như
nhau mà không hạ khả năng của những người tài giỏi nhất xuống các tiêu
chuẩn của những người kém cỏi nhất.
Những người xã hội chủ nghĩa quá giảo hoạt khi biện giải qua loa
những cách thức mà chủ nghĩa xã hội hạn chế tự do cá nhân. Nielsen viết:
“Chủ nghĩa xã hội cấm những hành vi tư bản chủ nghĩa-hay ít nhất là hầu
hết những hành vi tư bản chủ nghĩa-giữa những người trưởng thành có sự
đồng thuận. Mà điều đó chỉ đơn giản có nghĩa là nó hạn chế mua và bán.
Nó chẳng nói gì cả về các quyền tự do thực sự thiết yếu, ấy là, các
quyền tự do dân sự, như tự do ngôn luận, tư do bầu cử, tự do hành động,
hay tự do lương tâm, và các quyền tự do tương tự.”
Việc sử dụng từ “đơn giản” trong đoạn trên là xúc phạm. Bạn được nói
rằng bạn có tự do ngôn luận nhưng không phải là tự do mua và bán. Các
phương tiện sản xuất chủ yếu sẽ nằm trong tay nhà nước. Bạn có thể nói
những gì bạn muốn, nhưng bạn phải đến cơ quan nhà nước để mua giấy, mực
in, và báo in mà bạn cần để phổ biến những suy nghĩ của bạn cho người
khác. Bạn có quyền tự do đi lại nhưng có lẽ qua một hãng hàng không,
đường sắt, hoặc dịch vụ xe buýt của nhà nước và rồi chỉ khi nó không
xung đột với một số kế hoạch tập trung được quyết định một cách dân chủ.
Bạn sẽ được tự do thực hiện các quyền tự do dân sự của bạn miễn là bạn
không sử dụng các nguồn lực để làm như vậy. Nếu bạn sử dụng các nguồn
lực thì bạn phải đến cơ quan nhà nước để xin phép.
Thậm chí trong một xã hội xã hội chủ nghĩa dân chủ, sự thực hiện các
quyền về phương diện vật chất là cần thiết, nhưng nguồn lực vật chất nằm
trong tay nhà nước. Những người xã hội chủ nghĩa dân chủ dường như tin
rằng con người là những linh hồn tách rời thể xác, những người có thể
đạt được “những giá trị cao hơn” của họ trong một thế giới phi vật thể.
Trong mọi xã hội tư bản chủ nghĩa, báo chí, tờ rơi, và sách vở xã hội
chủ nghĩa có rất nhiều. Dưới chủ nghĩa tư bản, một người xã hội chủ
nghĩa không buộc phải có được sự đồng ý của đa số để xuất bản chương
trình nghị sự của mình. Điều này không đúng đối với những người tư bản
chủ nghĩa, và những người bất đồng chính kiến khác, trong thiên đường
xã hội chủ nghĩa.
“Những sự tự do thiết yếu”
Giáo sư Nielsen cũng lộ ra sự bất bình đẳng vốn có của chủ nghĩa xã
hội khi ông nói rằng mọi người vẫn có thể thực hiện “các quyền tự do
thực sự thiết yếu.” Ông không nói câu trả lời cho một câu hỏi quan trọng
nhưng không được hỏi, đó là: thiết yếu cho ai? Giống như những người xã
hội chủ nghĩa ở khắp mọi nơi, Nielsen cho chúng ta biết rằng một số
quyền tự do quan trọng hơn các quyền tự do khác, và ông cùng những người
xã hội chủ nghĩa cùng hội cùng thuyền sẽ quyết định cho chúng ta các
quyền tự do nào là thực sự quan trọng. Nhưng nếu bạn không đồng ý với
Nielsen? Chẳng hạn như nếu bạn nghĩ rằng quyền bán sức lao động của bạn
quan trọng hơn quyền tự do ngôn luận?
Nielsen đã trả lời câu hỏi đó: “Trong một xã hội xã hội chủ nghĩa,
không ai có thể mua và bán sức lao động.” Bởi vì ông giáo sư không coi
trọng quyền bán sức lao động, bạn sẽ bị cấm bán sức lao động của mình
bất chấp là bạn muốn bán. Nielsen có được quyền bất bình đẳng để áp đặt
hệ thống giá trị của mình lên bạn. Xã hội của ông sẽ là xã hội mà bạn
phải coi trọng các quyền tự do “cạnh tranh” theo như mong muốn của ông.
Chủ nghĩa bình đẳng xã hội chủ nghĩa sớm trôi vào cơn ác mộng Orwell nơi
“một số con vật được bình đẳng hơn những con vật khác.”
Sự bất bình đẳng vốn có của chủ nghĩa xã hội cũng được bộc lộ khi
Nielsen nói với chúng ta: “Với hoạch định hợp lý [trong chủ nghĩa xã
hội] hơn là hoạch định có thể có trong chủ nghĩa tư bản và với một nền
kinh tế được cơ cấu để đáp ứng nhu cầu của con người, chủ nghĩa xã hội
có thể nâng cao phúc lợi của con người hơn chủ nghĩa tư bản.” Nhưng để
có “hoạch định hợp lý” và một nền kinh tế “được cơ cấu,” phải có ai đó
hoạch định và cấu trúc. Ai sẽ có quyền đó? Và sẽ thế nào nếu bạn không
muốn “được hoạch định” và “được cơ cấu” theo ý tưởng tuỳ tiện của một ai
đó?
Những người xã hội chủ nghĩa cho chúng ta biết rằng dưới chủ nghĩa tư
bản, có hai giai cấp: những nhà tư bản và những người lao động. Tuy
nhiên, dưới chủ nghĩa xã hội cũng có hai giai cấp: các nhà hoạch định và
những người được hoạch định. Dưới chủ nghĩa tư bản, các nhà tư bản cạnh
tranh cố gắng mua sức lao động của bạn, và bạn có quyền lựa chọn một
trong số họ để làm việc cho. Và nếu bạn không thích bất cứ ai trong số
họ, bạn có thể bắt đầu công việc kinh doanh của riêng mình. Dưới chủ
nghĩa xã hội, có một người chủ, và bạn không có sự lựa chọn. “Sự lựa
chọn” duy nhất mà bạn có dưới chủ nghĩa xã hội là sống theo các giá trị
của những người xã hội chủ nghĩa. Trong thực tế, chúng ta thậm chí không
thể dùng từ “sự lựa chọn” trong bối cảnh này vì một sự lựa chọn đòi hỏi
phải có nhiều con đường, và phải có sự tự do để lựa chọn trong số
chúng.
Trong một xã hội tự do, không ai hành động để ngăn cản những người xã
hội chủ nghĩa thiết lập xã hội “lý tưởng” của mình. Nhưng trong thế
giới của Nielsen, những người xã hội chủ nghĩa sẽ ngăn cản những người
tự do chủ nghĩa thiết lập xã hội của họ. Nói cách khác, không có sự bình
đẳng về quyền dưới chủ nghĩa xã hội. Những người xã hội chủ nghĩa,
giống như tất cả những kẻ độc tài, cuối cùng kết thúc với việc ban phát
một quyền: quyền sống theo các giá trị, các mong muốn, và các kế hoạch
của họ.
Kế hoạch tuyệt vời của chủ nghĩa xã hội sẽ “được đạt đến một cách dân
chủ”, Nielsen nói. Nhưng cách thức làm sao mà điều này có thể được thực
hiện lại bị lờ đi một cách hân hoan. Cũng bị lờ đi là câu hỏi cơ bản về
lý do tại sao đa số có quyền hoạch định một cách dân chủ cuộc sống của
bạn. Nếu đa số trong một xã hội xã hội chủ nghĩa dân chủ có quyền áp đặt
ý chí của mình lên thiểu số chỉ đơn giản vì nó là đa số, thì trong tình
huống cụ thể đó, đa số có các quyền mà thiểu số không có. Một lần nữa
chúng ta phải đối mặt với sự bất bình đẳng về quyền, vậy mà những người
xã hội chủ nghĩa nói với chúng ta rằng có chủ nghĩa bình đẳng dưới chủ
nghĩa xã hội.
Giáo sư Nielsen kết thúc luận điểm với một lời kêu gọi cho quyền áp
đặt các giá trị của ông. “Một cam kết tự chủ là một cam kết tự định
hướng; những hạn chế lớn nhất sẽ là những hạn chế về tự do dân sự, nhưng
chủ nghĩa xã hội không đề cập tới chúng. Chủ nghĩa xã hội đề cập tới sự
tự do mua và bán, bao gồm cả mua và bán sức lao động. Điều này hầu như
không ảnh hưởng đến những người sống cuộc sống tự định hướng, nhưng ngay
cả khi nó ảnh hưởng, nó sẽ có nghĩa là đánh đổi sự tự do nhỏ hơn để lấy
sự tự do lớn hơn.”
Tôi không đồng ý. Tôi không phân chia các quyền tự do của tôi thành
“nhỏ hơn” hay “lớn hơn”. Tôi thấy tự do là bất khả phân. Giống như hầu
hết những người xã hội chủ nghĩa, Nielsen không coi trọng tự do kinh tế.
Vì vậy, nó là một sự tự do “nhỏ hơn”. Chủ nghĩa bình đẳng của ông có
nghĩa là ông có thể đánh đổi các quyền tự do mà bạn và tôi coi trọng bởi
vì ông không coi trọng các quyền tự do đó. Chúng ta sử dụng những tiêu
chuẩn của ai để phân loại các quyền tự do của chúng ta? Chúng ta có
quyết định điều này một cách dân chủ? Tự do dân sự có nên được quyết
định bởi một cuộc bỏ phiếu của đám đông? Hay chúng ta lại quay về với
Nielsen và các đồng nghiệp của ông và để họ quyết định cho chúng ta?
Khả năng sản xuất-đó là để lao động, vì có thể không có sản xuất mà
không có lao động-phải được hoạch định cho một xã hội xã hội chủ nghĩa
để còn là xã hội chủ nghĩa. Nếu các nhà hoạch định lập kế hoạch kinh tế
hợp lý, họ phải có khả năng chỉ đạo lao động-điều này mâu thuẫn với sự
tự do hành động mà Nielsen ca ngợi. Làm thế nào họ có thể hoạch định nền
kinh tế nếu mọi người được tự do theo đuổi lợi ích riêng của mình? Nếu
các nhà hoạch định cần các kỹ sư, nhưng thay vào đó, mọi người muốn theo
đuổi triết học, các nhà hoạch định sẽ cần sức mạnh để đóng cửa các lớp
triết học và chuyển các giáo sư tương lai vào các khóa học kỹ thuật. Nếu
họ không có sức mạnh đó, làm thế nào họ có thể hoạch định nền kinh tế?
Nếu họ không có quyền lựa chọn các mưu cầu trí tuệ của chúng ta, vậy thì
điều gì sẽ xảy ra với sự tự do tư tưởng? Sau hết, nền kinh tế phải được
cơ cấu để đáp ứng “các nhu cầu của con người,” theo nghĩa tập thể, lại
không phải là các nhu cầu của cá nhân.
Cuối cùng, chủ nghĩa xã hội dân chủ bảo vệ các quyền tự do dân sự là
một ảo tưởng chỉ có thể đạt được bằng họng súng. Lỗ hổng chết người
trong chủ nghĩa xã hội có hai phần: thứ nhất, tính tự phụ vốn có trong
mong muốn hoạch định cuộc sống của người khác; thứ hai, sức mạnh cần
thiết để áp đặt hoạch định đó lên các đối tượng không chấp nhận sự áp
đặt. Đây không phải là một công thức cho sự tự do mà cho chế độ độc tài.
Những điều kinh hoàng bạo ngược đã được chứng kiến trong thế kỷ vừa
qua dưới chế độ độc tài của các trí thức Mác-xít không trái với mục tiêu
lý tưởng của họ. Các phương pháp và các mục tiêu được gắn với nhau một
cách mật thiết. Thực tế độc tài là kết quả trực tiếp của những mục tiêu
lý tưởng. Dù con người có thể ước muốn điều gì đi nữa, sự thật vẫn là,
những người tự do sẽ không bao giờ bình đẳng và những người bình đẳng sẽ
không bao giờ tự do.
Nguyễn Trang Nhung chuyển ngữ
© Học Viện Công Dân, Dec 2015
James Peron là chủ tịch của Viện Moorfield Storey, một học viện
độc lập chuyên nghiên cứu về sự bình đẳng của các quyền trước phát luật,
sự dung thứ xã hội và tự do dân sự. Peron viết cho rất nhiều tạp chí uy
tín như Tạp chí Wall Street (ấn bản Âu châu), Reason, và Johannesburg
Star. Peron còn là tác giả cuốn sách “Zimbabwe: Cái chết của một ước
mơ,” và tiểu thuyết City Limits. Peron là biên tập viên cho hai website
“Hôn nhân và Bình đẳng” và Storey Institute blog.
Nguồn: http://fee.org/freeman/the-ideals-of-tyranny/
[1]
Frederick Hayek là một nhà kinh tế học, cổ vũ cho chủ nghĩa tự do cổ
điển bao gồm các quyền tự do dân sự, tự do chính trị, chính quyền dân
chủ pháp trị, và tự do kinh tế. Ông đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1974.
[2]
Luật Jim Crow là luật phân biệt chủng tộc của bảy tiểu bang miền Nam
Hoa Kỳ theo chế độ nô lệ (gồm có South Carolina, Georgia, Florida,
Alabama, Mississippi, Tezxas, và Louisiana). Luật này được đưa ra trong
thời kỳ tái thiết hậu Nội chiến (1865) và kéo dài mãi tới 1965. Theo
luật Jim Crow, người da đen được xem là “bình đẳng, nhưng phân biệt”
(separate but equal)., họ không được đi chung xe công cộng, các công
thự, và trường học công. (Jim Crow là một diễn viên da trắng giả làm da
đen và nhại giọng cùng bộ điệu của người da đen trong những màn biểu
diễn để chế giễu người da đen. Không hiểu vì sao từ Jim Crow được dùng
để chỉ những đạo luật này).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét